Tố Hữu là bút danh Nguyễn Kim Thành, sinh năm
1920, tại Thừa Thiên - Huế. Ông là nhà thơ lớn của nền thi ca cách mạng Việt
Nam. Cuộc đời của Tố Hữu gắn liền với cuộc đời cách mạng của ông. Mỗi tác phẩm
của thi sĩ là một chặng đường lịch sử, là một chiến công của nhân dân ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng và của Hồ Chủ Tịch: “Từ ấy” (1937-1946), “Việt Bắc”
(1954), “Gió lộng”(1961), “Ra trận” (1972), “Máu và hoa” (1977)…
Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của Tố Hữu. Bài thơ nói lên niềm vui sướng hạnh phúc của một thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng, thấy gắn bó với nhân dân cần lao.
“Từ ấy” là lúc, là khi nhà thơ được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng, mà sau này, ông nói rõ trong một bài thơ: “Con lớn lên, con tìm Cách mạng – Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi - ** không còn nữa, con còn Đảng. Dìu dắt khi con chửa biết gì”(Quê **).
“Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lí tưởng Cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa Cộng sản đã soi sáng tâm hồn, đã “chói qua tim”, đem lại ánh sáng cuộc đời như “bừng” lên trong “nắng hạ” - Một cách nói rất mới, rất thơ về lí tưởng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”.
Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
“Hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Đâ-"từ ấy" mang một ý nghĩa phiếm đinh về mặt thời gian ... Đó là khi tâm trạng của nhà thơ trong giây phút giác ngộ lí tưởng cộng sản .
- " Từ ấy " cũng là mốc thời gian đánh dấu bước ngoặt, lối rẽ mới trong cuộc đời của nhà thơ Tố Hữu , đối với ông " từ ấy " là một thời gian rất cụ thể . " Từ ấy " _ ông đã xác định được con đường đúng đắn mà mình phải đi và cũng chính từ đấy , lý tưởng cách mạng đã soi sáng tâm hồn ông , đã giúp ông tìm được lối đi đúng đắn cho cuộc đời ... mà trước đây , ông đã từng lạc lói :
" Chọn một dòng hay để nước trôi xuối "
" Ta đi ngơ ngác trong cuộc đời"
( Tố Hữu)
Nhà thơ Cách mạng ấy , cùng biết bao nhà thơ khác đã từng lac lối giữa cuộc đời , giứa sự lựa chọn lớn lao , cống hiến cuộc đời , tuổi trẻ cho Cách Mạng . Nhưng " từ ấy " , nhà thơ đã tìm được lỗi đi cho mình khii giác ngộ lý tưởng cộng sản...y là khổ thơ hay nhất, đậm đà
HOẶC :
Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua 6 tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng, Máu
Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
“Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng,Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim
Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.
Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng
Ta đi tới chỉ một đường cách mạng
Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:
Mặt trời chân lí chói qua tim
Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.
Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:
Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót.Ở đây hiện thưc và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ
Bái này rất hay.Mình xin góp thêm 1 bài như the này
Trong những năm tháng dầu sôi lửa bỏng của chiến tranh, rất nhiều nhà thơ đã giác ngộ chân lý của Đảng, của Cách mạng Việt Nam, từ đó đã cho ra đời những bài thơ mang đậm khí thế hiên ngang, anh dũng. Một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền Văn học kháng chiến chống Pháp chính là nhà thơ Tố Hữu, mà sự giác ngộ Cách mạng của ông được thể hiện qua bài thơ "Từ ấy".
Bài thơ "Từ ấy" được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của Tố Hữu . Bài thơ nói lên niềm vui sướng hạnh phúc của một thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng, thấy gắn bó với nhân dân cần lao.
"Từ ấy" mang một ý nghĩa phiếm đinh về mặt thời gian ... Đó là khi tâm trạng của nhà thơ trong giây phút giác ngộ lí tưởng cộng sản .", là mốc son đánh dấu bước ngoặt, lối rẽ mới trong cuộc đời của nhà thơ Tố Hữu , đối với ông " từ ấy " là một thời gian rất cụ thể, ông đã xác định được con đường đúng đắn mà mình phải đi và cũng chính từ đấy , lý tưởng cách mạng đã soi sáng tâm hồn ông , đã giúp ông tìm được lối đi đúng đắn cho cuộc đời ... mà trước đây , ông đã từng lạc lối.Trong buổi ban đầu, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến "băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời".Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ ,nhà thơ được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin ,người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng, như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng, mà sau này, ông nói rõ trong một bài thơ: "Con lớn lên, con tìm Cách mạng – Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi - Mẹ không còn nữa, con còn Đảng. Dìu dắt khi con chửa biết gì"(Quê mẹ).
1.Hai câu đầu là niềm say mê náo nức của nhà thơ khi đón nhận lí tưởng Cách mạng
" Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim"
-Từ ấy: dấu ấn quan trọng đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời người thanh niên Tố Hữu
-"Bừng nắng hạ", "Mặt trời chân lý", "Chói qua tim" : hình ảnh ẩn dụ
+ "Bừng" : ánh sáng phát ra bất ngờ đột ngột, bao kín đôi mắt nhà thơ
+ "Chói" : ánh sáng có sức xuyên thấu mạnh mẽ, ánh nắng toả sáng rực rỡ , chói chang bắt nguồn từ mặt trời chân lý -lý tưởng cách mạng ,soi sáng trong lòng tác giả
Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu" bừng nắng hạ" đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí
"Mặt trời chân lí" là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lí tưởng Cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa Cộng sản đã soi sáng tâm hồn, đã "chói qua tim", đem lại ánh sáng cuộc đời như "bừng" lên trong "nắng hạ" - Một cách nói rất mới, rất thơ về lí tưởng:. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã "chói" vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.
"...Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim..."
Hồn tôi - Vườn hoa lá: Hình ảnh so sánh ? Tố hữu sung sướng lí tưởng Cộng sản cũng như cỏ cây đón nhận ánh sáng mặt trời. Lí tưởng đã mang lại sức sống và niềm tin yêu cuộc đời cho tất cả mọi người, lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại.
"Hồn" người đã trở thành "vườn hoa", một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Khiến cho đây là khổ thơ hay nhất, đậm đà nhất
Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại .Ở đây hiện thưc và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ. :
2. Lời tự nguyện của nhà thơ khi giác ngộ lí tưởng Đảng
Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái tôi nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó vớI mọi người
"Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khặp muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"
- Động từ "buộc", "trang trải": những hành động có tính tự nguyện .
"Buộc" và "trang trải"là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu. "Buộc" là đoàn kết gắn bó, tự nguyện gắn bó đời mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam
-"Lòng tôi ","tình ","hồn tôi"gắn liền với "mọi người ","trăm nơi","bao hồn khổ" , sự gắn bó đồng cảm sâu xa giữa cái tôi riêng và cái ta chung ,giữa tấm lòng nhà thơ với khối đời chung của nhân dân lao động .
"Để tình trang trải với trăm nơi"
Xác định vị trí của mình là đứng trong hàng ngũ nhân dân lao động chưa đủ, "trang trải"-"trăm nơi" biểu hiện một tinh thần đoàn kết, tình cảm nồng thắm, chan hòa với nhân dân.Tình yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.Nhà thơ muốn được như Mác: "Vì lẽ sống, hy sinh cho cuộc sống - Đời với Mác là tình cao nghĩa rộng"., mong ước xây dựng một khối đời vững chắc làm nên sức mạnh quần chúng cách mạng.Từ đó Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh.
-"Bao hồn khổ": tầng lớp đáng thương nhất trong xã hội đương thời, "để" gợi lên ý thơ chủ động sự gắn kết lòng mình với mọi người hòa làm một, chứa đựng nỗi thương xót tột cùng và sự đồng cảm sâu sắc đối với "đại gia đình" đang trong cảnh lầm than.
-"Khối đời": danh từ trừu tượng, thể hiện một khái niệm cuộc sống bao quát, gộp chung, không thể nhìn, cân đong đo đếm, nhưng lại gói ghém thành một sức mạnh phi thường, cụ thể hóa phi vật thể.
=> Nhấn mạnh lần nữa mối ân tình giữa tác giả với muôn dân, khẳng định cuộc sống bản thân nhà thơ không có sự riêng biệt, mà chỉ là một phần tử nhỏ chan hòa và giao cảm với những mảnh đời còn lại.
3.Sự khẳng định của nhà thơ
"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm ,cù bất cù bơ."
-"đã là", "là con","là em", "là anh": tình cảm đầm ấm ,thân thiết, gắn bó và gần gũi
- Đối tượng :"vạn nhà ", "vạn kiếp phôi pha", "vạn đầu em nhỏ ": quần chúng lao khổ, những kiếp sống mòn mỏi đáng thương, những mái đầu trẻ thơ tội nghiệp không nơi nương tựa.
-Điệp từ "là" gắn với những đại từ quan hệ thân thuộc, trìu mến, một mặt thể hiện mối quan hệ tự nhiên mà gắn bó sâu sắc, mặt khác ngầm khẳng định nhiệm vụ, vai trò lớn lao của người thanh niên đối với cộng đồng, xã hội .
"Cù bất cù bơ": tính từ khá mới lạ nhưng người đọc vẫn cảm nhận được hòan cảnh nay đây mai đó, bơ vơ không chỉ riêng tác giả, mà còn dựng lên được cuộc sống mỏng manh của hầu hết đồng bào đang trong đói khổ.
Sự chuyển biến trong tâm trạng của Tố Hữu: tấm lòng đồng cảm, xót thương đối với mọi người lao khổ . Qua đó còn thể hiện lòng căm giận của nhà thơ trước bao bất công ngang trái của cuộc đời cũ. Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh, nguyện sẽ đứng vào hàng ngũ những người "than bụi, lầy bùn"là lực lượng tiếp nối của "vạn kiếp phôi pha", là lực lượng ngày mai lớn mạnh của "vạn đầu em nhỏ",để đấu tranh cho ngày mai tươi sáng.Điệp từ "là" được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ lắng đọng trong tâm hồn ta một niềm cảm phục, quý mến người trai trẻ yêu đời, yêu người này.
Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, "Từ ấy" đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.
4. Nghệ thuật
-Sử dụng biện pháp tu từ : ẩn dụ ,so sánh , diệp từ
-Thể thơ thất ngôn, 1 thể thơ truyền thống
-Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhịp diệu
-Sự đa dạng của bút pháp tự sự, lãng mạn, trữ tình.
Tổng kết:
Bài thơ "Từ ấy" là tâm niệm của một người thanh niên yêu nước, giác ngộ lý tưởng cách mạng. Nó thể hiện niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức và tình cảm mới của Tố Hữu khi có ánh sáng lý tưởng cách mạng soi rọi. Sự vận động ấy của tâm trạng nhà thơ được thể hiện bằng những hình ảnh tươi sáng, rực rỡ; các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhịp điệu."Từ Ấy" là một bài thơ vừa có tính triết lý sâu sắc, vừa rất gần gũi, bình dị, thân thuộc. Sau mấy chục năm đọc lại, những vần thơ đó vẫn là một câu hỏi thấm thía mà những người cộng sản hôm nay không thể không suy ngẫm một cách nghiêm túc để tự mình tìm ra lời giải đáp thấu đáo. Giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng - tập thể và cá nhân, giữa vật chất tầm thường và tinh thần – tư tưởng của người cộng sản.
Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của Tố Hữu. Bài thơ nói lên niềm vui sướng hạnh phúc của một thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng, thấy gắn bó với nhân dân cần lao.
“Từ ấy” là lúc, là khi nhà thơ được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng, mà sau này, ông nói rõ trong một bài thơ: “Con lớn lên, con tìm Cách mạng – Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi - ** không còn nữa, con còn Đảng. Dìu dắt khi con chửa biết gì”(Quê **).
“Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lí tưởng Cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa Cộng sản đã soi sáng tâm hồn, đã “chói qua tim”, đem lại ánh sáng cuộc đời như “bừng” lên trong “nắng hạ” - Một cách nói rất mới, rất thơ về lí tưởng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”.
Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
“Hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Đâ-"từ ấy" mang một ý nghĩa phiếm đinh về mặt thời gian ... Đó là khi tâm trạng của nhà thơ trong giây phút giác ngộ lí tưởng cộng sản .
- " Từ ấy " cũng là mốc thời gian đánh dấu bước ngoặt, lối rẽ mới trong cuộc đời của nhà thơ Tố Hữu , đối với ông " từ ấy " là một thời gian rất cụ thể . " Từ ấy " _ ông đã xác định được con đường đúng đắn mà mình phải đi và cũng chính từ đấy , lý tưởng cách mạng đã soi sáng tâm hồn ông , đã giúp ông tìm được lối đi đúng đắn cho cuộc đời ... mà trước đây , ông đã từng lạc lói :
" Chọn một dòng hay để nước trôi xuối "
" Ta đi ngơ ngác trong cuộc đời"
( Tố Hữu)
Nhà thơ Cách mạng ấy , cùng biết bao nhà thơ khác đã từng lac lối giữa cuộc đời , giứa sự lựa chọn lớn lao , cống hiến cuộc đời , tuổi trẻ cho Cách Mạng . Nhưng " từ ấy " , nhà thơ đã tìm được lỗi đi cho mình khii giác ngộ lý tưởng cộng sản...y là khổ thơ hay nhất, đậm đà
HOẶC :
Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua 6 tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng, Máu
Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
“Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng,Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim
Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.
Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng
Ta đi tới chỉ một đường cách mạng
Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:
Mặt trời chân lí chói qua tim
Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.
Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:
Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót.Ở đây hiện thưc và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ
Bái này rất hay.Mình xin góp thêm 1 bài như the này
Trong những năm tháng dầu sôi lửa bỏng của chiến tranh, rất nhiều nhà thơ đã giác ngộ chân lý của Đảng, của Cách mạng Việt Nam, từ đó đã cho ra đời những bài thơ mang đậm khí thế hiên ngang, anh dũng. Một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền Văn học kháng chiến chống Pháp chính là nhà thơ Tố Hữu, mà sự giác ngộ Cách mạng của ông được thể hiện qua bài thơ "Từ ấy".
Bài thơ "Từ ấy" được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của Tố Hữu . Bài thơ nói lên niềm vui sướng hạnh phúc của một thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng, thấy gắn bó với nhân dân cần lao.
"Từ ấy" mang một ý nghĩa phiếm đinh về mặt thời gian ... Đó là khi tâm trạng của nhà thơ trong giây phút giác ngộ lí tưởng cộng sản .", là mốc son đánh dấu bước ngoặt, lối rẽ mới trong cuộc đời của nhà thơ Tố Hữu , đối với ông " từ ấy " là một thời gian rất cụ thể, ông đã xác định được con đường đúng đắn mà mình phải đi và cũng chính từ đấy , lý tưởng cách mạng đã soi sáng tâm hồn ông , đã giúp ông tìm được lối đi đúng đắn cho cuộc đời ... mà trước đây , ông đã từng lạc lối.Trong buổi ban đầu, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến "băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời".Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ ,nhà thơ được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin ,người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng, như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng, mà sau này, ông nói rõ trong một bài thơ: "Con lớn lên, con tìm Cách mạng – Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi - Mẹ không còn nữa, con còn Đảng. Dìu dắt khi con chửa biết gì"(Quê mẹ).
1.Hai câu đầu là niềm say mê náo nức của nhà thơ khi đón nhận lí tưởng Cách mạng
" Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim"
-Từ ấy: dấu ấn quan trọng đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời người thanh niên Tố Hữu
-"Bừng nắng hạ", "Mặt trời chân lý", "Chói qua tim" : hình ảnh ẩn dụ
+ "Bừng" : ánh sáng phát ra bất ngờ đột ngột, bao kín đôi mắt nhà thơ
+ "Chói" : ánh sáng có sức xuyên thấu mạnh mẽ, ánh nắng toả sáng rực rỡ , chói chang bắt nguồn từ mặt trời chân lý -lý tưởng cách mạng ,soi sáng trong lòng tác giả
Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu" bừng nắng hạ" đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí
"Mặt trời chân lí" là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lí tưởng Cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa Cộng sản đã soi sáng tâm hồn, đã "chói qua tim", đem lại ánh sáng cuộc đời như "bừng" lên trong "nắng hạ" - Một cách nói rất mới, rất thơ về lí tưởng:. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã "chói" vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.
"...Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim..."
Hồn tôi - Vườn hoa lá: Hình ảnh so sánh ? Tố hữu sung sướng lí tưởng Cộng sản cũng như cỏ cây đón nhận ánh sáng mặt trời. Lí tưởng đã mang lại sức sống và niềm tin yêu cuộc đời cho tất cả mọi người, lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại.
"Hồn" người đã trở thành "vườn hoa", một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Khiến cho đây là khổ thơ hay nhất, đậm đà nhất
Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại .Ở đây hiện thưc và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ. :
2. Lời tự nguyện của nhà thơ khi giác ngộ lí tưởng Đảng
Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái tôi nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó vớI mọi người
"Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khặp muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"
- Động từ "buộc", "trang trải": những hành động có tính tự nguyện .
"Buộc" và "trang trải"là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu. "Buộc" là đoàn kết gắn bó, tự nguyện gắn bó đời mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam
-"Lòng tôi ","tình ","hồn tôi"gắn liền với "mọi người ","trăm nơi","bao hồn khổ" , sự gắn bó đồng cảm sâu xa giữa cái tôi riêng và cái ta chung ,giữa tấm lòng nhà thơ với khối đời chung của nhân dân lao động .
"Để tình trang trải với trăm nơi"
Xác định vị trí của mình là đứng trong hàng ngũ nhân dân lao động chưa đủ, "trang trải"-"trăm nơi" biểu hiện một tinh thần đoàn kết, tình cảm nồng thắm, chan hòa với nhân dân.Tình yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.Nhà thơ muốn được như Mác: "Vì lẽ sống, hy sinh cho cuộc sống - Đời với Mác là tình cao nghĩa rộng"., mong ước xây dựng một khối đời vững chắc làm nên sức mạnh quần chúng cách mạng.Từ đó Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh.
-"Bao hồn khổ": tầng lớp đáng thương nhất trong xã hội đương thời, "để" gợi lên ý thơ chủ động sự gắn kết lòng mình với mọi người hòa làm một, chứa đựng nỗi thương xót tột cùng và sự đồng cảm sâu sắc đối với "đại gia đình" đang trong cảnh lầm than.
-"Khối đời": danh từ trừu tượng, thể hiện một khái niệm cuộc sống bao quát, gộp chung, không thể nhìn, cân đong đo đếm, nhưng lại gói ghém thành một sức mạnh phi thường, cụ thể hóa phi vật thể.
=> Nhấn mạnh lần nữa mối ân tình giữa tác giả với muôn dân, khẳng định cuộc sống bản thân nhà thơ không có sự riêng biệt, mà chỉ là một phần tử nhỏ chan hòa và giao cảm với những mảnh đời còn lại.
3.Sự khẳng định của nhà thơ
"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm ,cù bất cù bơ."
-"đã là", "là con","là em", "là anh": tình cảm đầm ấm ,thân thiết, gắn bó và gần gũi
- Đối tượng :"vạn nhà ", "vạn kiếp phôi pha", "vạn đầu em nhỏ ": quần chúng lao khổ, những kiếp sống mòn mỏi đáng thương, những mái đầu trẻ thơ tội nghiệp không nơi nương tựa.
-Điệp từ "là" gắn với những đại từ quan hệ thân thuộc, trìu mến, một mặt thể hiện mối quan hệ tự nhiên mà gắn bó sâu sắc, mặt khác ngầm khẳng định nhiệm vụ, vai trò lớn lao của người thanh niên đối với cộng đồng, xã hội .
"Cù bất cù bơ": tính từ khá mới lạ nhưng người đọc vẫn cảm nhận được hòan cảnh nay đây mai đó, bơ vơ không chỉ riêng tác giả, mà còn dựng lên được cuộc sống mỏng manh của hầu hết đồng bào đang trong đói khổ.
Sự chuyển biến trong tâm trạng của Tố Hữu: tấm lòng đồng cảm, xót thương đối với mọi người lao khổ . Qua đó còn thể hiện lòng căm giận của nhà thơ trước bao bất công ngang trái của cuộc đời cũ. Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh, nguyện sẽ đứng vào hàng ngũ những người "than bụi, lầy bùn"là lực lượng tiếp nối của "vạn kiếp phôi pha", là lực lượng ngày mai lớn mạnh của "vạn đầu em nhỏ",để đấu tranh cho ngày mai tươi sáng.Điệp từ "là" được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ lắng đọng trong tâm hồn ta một niềm cảm phục, quý mến người trai trẻ yêu đời, yêu người này.
Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, "Từ ấy" đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.
4. Nghệ thuật
-Sử dụng biện pháp tu từ : ẩn dụ ,so sánh , diệp từ
-Thể thơ thất ngôn, 1 thể thơ truyền thống
-Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhịp diệu
-Sự đa dạng của bút pháp tự sự, lãng mạn, trữ tình.
Tổng kết:
Bài thơ "Từ ấy" là tâm niệm của một người thanh niên yêu nước, giác ngộ lý tưởng cách mạng. Nó thể hiện niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức và tình cảm mới của Tố Hữu khi có ánh sáng lý tưởng cách mạng soi rọi. Sự vận động ấy của tâm trạng nhà thơ được thể hiện bằng những hình ảnh tươi sáng, rực rỡ; các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhịp điệu."Từ Ấy" là một bài thơ vừa có tính triết lý sâu sắc, vừa rất gần gũi, bình dị, thân thuộc. Sau mấy chục năm đọc lại, những vần thơ đó vẫn là một câu hỏi thấm thía mà những người cộng sản hôm nay không thể không suy ngẫm một cách nghiêm túc để tự mình tìm ra lời giải đáp thấu đáo. Giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng - tập thể và cá nhân, giữa vật chất tầm thường và tinh thần – tư tưởng của người cộng sản.
Phân tích bài thơ “Chiều tối” của HCM để làm nổi bật vẻ đẹp
cổ điển và tinh thần hiện đại của bài thơ.
Bài làm:
Chiều tối là bài thơ được viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng- cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con người. Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Hay nói đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại
Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ơû đây bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều.
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
“Cánh chim” và “chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa và nay. Cho nên, đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian. Cánh chim ở đây được lấy từ thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Trong thế giới thẩm mỹ ấy, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ diễn tả cảnh chiều: “Phi yến thu lâm”; “Quyện điểu quy lâm” là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang nghiêng dần về cuối chân trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình như trong cảm nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnh cánh chim thì bóng chiều chưa rõ.
Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:
“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch
“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên
chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướng, điểm dừng, mục đích bay rõ ràng:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)
như vậy Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực. Ta nhận thấy trong cách nhìn của Bác là một cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.
Câu thơ thứ hai cũng mang đậm nét Đường thi. Nó rất gần với câu thơ: “Cô vân độc khứ nhàn” của Lí Bạch. Hình ảnh chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời đã trở thành một mô tuýp quen thuộc trong thơ xưa, nó thường gợi lên cái cô độc thanh cao, sự phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không. Còn trong bài “Chiều tối” của Bác, hình ảnh chòm mây cô độc trôi nhè nhẹ qua bầu trời chỉ là một nét vẽ tạo nên cái không gian cao rộng của cảnh trời chiều nơi miền rừng núi. Bầu trời hôm ấy phải thật cao, thật trong xanh ta mới thấy được hình ảnh chòm mây cô độc ấy gợi nên hình ảnh cô độc nơi đất khách, quê người của Bác. Mỗi một chi tiết của cảnh chiều đều nhuốm màu tâm trạng. Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù thì mệt mỏi sau một ngày đường mà vẫn chưa có được chỗ dừng chân. Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không, còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách. Hai câu thơ đạt đến mức vi diệu của lối tả cảnh ngụ tình. Ơû đó ta bắt gặp một tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên và sự sống. Từ đó ta thấy được một nghị lực phi thường và đó cũng chính là chất thép trong thơ của Bác.
Nếu như ở hai câu thơ đầu bằng bút pháp cổ điển Bác đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho bức tranh, thì trong hai câu thơ sau, Bác tập trung làm nổi bật hình tượng trung tâm của bức tranh. Từ bút pháp cổ điển Bác chuyển hẳn sang bút pháp hiện đại.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng)
“xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa. Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ. Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếụ nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh.
Trong thơ xưa, những bức tranh vẻ cảnh chiều đều có bóng dáng con người nhưng sao lẻ loi, cô độc và hiu hắt quá. Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn:
“Lom khom dưới núi tều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan)
hay:
“Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn”
(Chiều Hôm Nhớ Nhà - Bà Huyện Thanh Quan)
còn con người trong thơ Bác, lại là con người lao động đầy sức sống. Chính hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên sức sống của bức tranh. Cô gái miệt mài xay ngô và hình như cô không chú ý đến những gì xung quanh mình. Cối xay vẫn cứ quay và quay tít “ma bao túc” rồi “bao túc ma” và khi ngô đã xay xong “bao túc ma hoàn” thì cô mới nhìn thấy “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” hiện lên trong đêm tối càng làm nổi bật hình ảnh người thiếu nữ. Toàn bộ cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối. Cũng vì thế hình ảnh lò than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt. Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”, có thể nói đó chính là chỗ đẹp nhất của bài thơ. Đó chính là ánh lửa hồng của cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc gia đình, ánh lửa hồng của sự sống, của niềm lạc quan. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ, toả ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của bức tranh chiều tối nơi rừng núi.
Hai câu thơ đã cho ta thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương, trân trọng của Bác đối với con người lao động. Buổi “Chiều tối” nơi miền rừng núi quạnh hiu, hoang vắng, lẽ ra rất đỗi buồn bã, thê lương trước mắt người tù bị xiềng xích, bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả, nhưng trái lại đó là tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên tiếng reo vui ấy, tạo cho bài thơ âm hưởng nồng ấm, dạt dào.
“Chiều tối” là một tác phẩm đậm đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại, thể hiện một cách tự nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù – thi sĩ, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Điều đặc biệt ở đây là cảm quan thiên nhiên của Bác gắn liền với cảm quan nhân đạo, cảm quan về sự sống.
Bài làm:
Chiều tối là bài thơ được viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng- cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con người. Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Hay nói đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại
Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ơû đây bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều.
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
“Cánh chim” và “chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa và nay. Cho nên, đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian. Cánh chim ở đây được lấy từ thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Trong thế giới thẩm mỹ ấy, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ diễn tả cảnh chiều: “Phi yến thu lâm”; “Quyện điểu quy lâm” là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang nghiêng dần về cuối chân trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình như trong cảm nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnh cánh chim thì bóng chiều chưa rõ.
Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:
“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch
“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên
chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướng, điểm dừng, mục đích bay rõ ràng:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)
như vậy Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực. Ta nhận thấy trong cách nhìn của Bác là một cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.
Câu thơ thứ hai cũng mang đậm nét Đường thi. Nó rất gần với câu thơ: “Cô vân độc khứ nhàn” của Lí Bạch. Hình ảnh chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời đã trở thành một mô tuýp quen thuộc trong thơ xưa, nó thường gợi lên cái cô độc thanh cao, sự phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không. Còn trong bài “Chiều tối” của Bác, hình ảnh chòm mây cô độc trôi nhè nhẹ qua bầu trời chỉ là một nét vẽ tạo nên cái không gian cao rộng của cảnh trời chiều nơi miền rừng núi. Bầu trời hôm ấy phải thật cao, thật trong xanh ta mới thấy được hình ảnh chòm mây cô độc ấy gợi nên hình ảnh cô độc nơi đất khách, quê người của Bác. Mỗi một chi tiết của cảnh chiều đều nhuốm màu tâm trạng. Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù thì mệt mỏi sau một ngày đường mà vẫn chưa có được chỗ dừng chân. Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không, còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách. Hai câu thơ đạt đến mức vi diệu của lối tả cảnh ngụ tình. Ơû đó ta bắt gặp một tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên và sự sống. Từ đó ta thấy được một nghị lực phi thường và đó cũng chính là chất thép trong thơ của Bác.
Nếu như ở hai câu thơ đầu bằng bút pháp cổ điển Bác đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho bức tranh, thì trong hai câu thơ sau, Bác tập trung làm nổi bật hình tượng trung tâm của bức tranh. Từ bút pháp cổ điển Bác chuyển hẳn sang bút pháp hiện đại.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng)
“xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa. Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ. Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếụ nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh.
Trong thơ xưa, những bức tranh vẻ cảnh chiều đều có bóng dáng con người nhưng sao lẻ loi, cô độc và hiu hắt quá. Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn:
“Lom khom dưới núi tều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan)
hay:
“Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn”
(Chiều Hôm Nhớ Nhà - Bà Huyện Thanh Quan)
còn con người trong thơ Bác, lại là con người lao động đầy sức sống. Chính hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên sức sống của bức tranh. Cô gái miệt mài xay ngô và hình như cô không chú ý đến những gì xung quanh mình. Cối xay vẫn cứ quay và quay tít “ma bao túc” rồi “bao túc ma” và khi ngô đã xay xong “bao túc ma hoàn” thì cô mới nhìn thấy “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” hiện lên trong đêm tối càng làm nổi bật hình ảnh người thiếu nữ. Toàn bộ cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối. Cũng vì thế hình ảnh lò than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt. Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”, có thể nói đó chính là chỗ đẹp nhất của bài thơ. Đó chính là ánh lửa hồng của cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc gia đình, ánh lửa hồng của sự sống, của niềm lạc quan. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ, toả ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của bức tranh chiều tối nơi rừng núi.
Hai câu thơ đã cho ta thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương, trân trọng của Bác đối với con người lao động. Buổi “Chiều tối” nơi miền rừng núi quạnh hiu, hoang vắng, lẽ ra rất đỗi buồn bã, thê lương trước mắt người tù bị xiềng xích, bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả, nhưng trái lại đó là tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên tiếng reo vui ấy, tạo cho bài thơ âm hưởng nồng ấm, dạt dào.
“Chiều tối” là một tác phẩm đậm đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại, thể hiện một cách tự nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù – thi sĩ, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Điều đặc biệt ở đây là cảm quan thiên nhiên của Bác gắn liền với cảm quan nhân đạo, cảm quan về sự sống.
(Mộ)
Hồ Chí Minh
Chiều tối là bài thơ tiêu biểu rút trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại một cách chân thực cảnh người tù sau một ngày chuyển lao mệt nhọc. Ở đó người đọc nhận ra thế giới tâm hồn người tù Hồ Chí Minh là tình yêu thiên nhiên cuộc sống tha thiết, là khao khát ý chí và bản lĩnh người cách mạng. Bài thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh : vừa cổ điển, vừa hiện đại.
Nhật kí trong tù là tập thơ có giá trị văn học rất lớn của Hồ Chí Minh, được viết bằng chữ Hán nên có rất nhiều điểm gần với thơ Đường. Với những bài Đường luật xinh xắn về hình thức, nồng nàn về cảm xúc,... tác phẩm thể hiện tài năng, tấm lòng, tâm huyết và nhân cách Hồ Chí Minh với cả hai tư cách nghệ sĩ và chiến sĩ.
Bài thơ Chiều tối đã thể hiện đầy đủ và khá điển hình đặc điểm cơ bản nhất của toàn bộ cuốn nhật kí bằng thơ của Hồ Chí Minh, đó là vẻ đẹp cổ điển về hình thức và hiện đại về cảm hứng, toát lên phong thái ung dung tự tại của một người Cộng sản. Dù trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào, Người cũng phát hiện được những vẻ đẹp giản dị mà đáng quý của cuộc sống.
Bài thơ tả cảnh chiều tối ở một sơn thôn. Bức tranh phong cảnh ấy được bố cục làm hai phần :
Hai câu đầu : tả cảnh vật trong buổi chiều tối. Tất nhiên đây là cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của người tù, vì vậy nó là cảnh thật nhưng có ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh cánh chim và đám mây vừa giàu chất hoạ, vừa có khả năng gợi cảm. Sự mệt mỏi của cánh chim, sự cô đơn của đám mây chiều là tâm trạng của người tù đang tha phương.
Hai câu sau : bức tranh bừng sáng bởi "lô dĩ hồng". Bản lĩnh cứng cáp đã giúp người tù nhanh chóng thoát khỏi cô đơn và mệt mỏi để phát hiện ra sức sống. Vẻ đẹp của bức tranh thể hiện ở hình ảnh người lao động. Tâm hồn của Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai, về nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống.
Bài thơ thể hiện tài năng sáng tạo thơ "thi trung hữu hoạ" của Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện bản lĩnh của người cộng sản.
Hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên mở ra những hình ảnh cụ thể : cánh chim, chòm mây, bầu trời, núi rừng.
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không ;
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Không gian rừng núi có vẻ âm u hoang vắng gợi ra sự rộng lớn mênh mông. Thời gian chiều ngả dần về tối là thời gian nghệ thuật quen thuộc trở đi trở lại trong các tác phẩm thi ca. Nghệ sĩ xưa thường mượn thời gian chiều tối để gửi gắm tiếng lòng mình, để nương náu nỗi buồn của mình. Ca dao xưa có câu :
Chim bay về núi tối rồi
hay trong Truyện Kiều :
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành.
Đọc câu thơ của Hồ Chí Minh khiến người đọc nhớ tới những tứ thơ của người xưa, ý thơ mang đậm sắc thái cổ điển.
Nỗi lòng, tâm trạng người tù sau một ngày chuyển lao vất vả, nhọc nhằn, mệt mỏi được hiện lên qua hình ảnh cánh chim mỏi mệt. Nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" được sử dụng thành công khiến người đọc không chỉ cảm nhận được tiếng nói của tâm trạng con người. Chòm mây trong cái nhìn của người tù là chòm mây cô đơn. Người đọc không chỉ cảm nhận được sự nhọc nhằn, mệt mỏi của người tù mà còn thấy được cả nỗi cô đơn, buồn khổ của người tù trong cảnh ấy. Bản dịch thơ chưa dịch hết nghĩa nguyên tác, không dịch được chữ cô trong cô vân. Bởi vậy lời dịch không làm bật lên sự cô đơn lẻ chiếc của cảnh vật cũng như nỗi cô đơn trong lòng người. Từ láy mạn mạn được dịch là "trôi nhẹ" gợi cảm giác nhẹ nhàng, thư thái. Trong cảm nhận của người tù, áng mây chầm chậm, lững lờ trôi trên bầu trời trong cảm giác cô đơn. Người ta tưởng chừng áng mây như ngưng đọng giữa bầu trời chiều. Có một sự vận động mệt mỏi, ý thơ khác hẳn với cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, lãng mạn mà "trôi nhẹ" đem lại. Bức tranh thiên nhiên có vẻ hoang vắng, tĩnh lặng, thấm nỗi buồn cô đơn của con người. Hai câu thơ không có một từ nào trực tiếp miêu tả người tù và tâm trạng người tù nhưng qua đó vẫn ẩn chứa hình ảnh người tù trong sự mệt mỏi, nhọc nhằn, trong nỗi buồn và sự cô đơn.
Tất cả cảnh vật thiên nhiên : cánh chim, chòm mây, bầu trời đều là những cảnh vật được cảm nhận từ trên cao, trong không gian cao rộng, khoáng đạt. Người ta nhận ra tư thế người tù tư thế của một con người luôn ngẩng cao đầu với một ý chí, nghị lực mạnh mẽ, với một tâm hồn rộng mở đón nhận vạn vật vào trong lòng mình. Hai câu đầu diễn tả nỗi buồn, sự cô đơn của người tù nhưng không gợi cảm giác bi luỵ bế tắc mà vẫn hé mở bản lĩnh, ý chí, nghị lực phi thường của người tù cách mạng.
Nếu như hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên thì hai câu sau miêu tả bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người :
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.)
Hình ảnh "cô em xóm núi" trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh. Hình ảnh con người xuất hiện trở thành tâm điểm của sự sống làm ấm áp cả bức tranh chiều tối hoang vắng, lạnh lẽo. Vẻ đẹp của bức tranh chiều tối được toát lên từ chính vẻ đẹp hoạt động của con người, thể hiện sự khoẻ khoắn, niềm tin và khát vọng mạnh mẽ của con người. Câu thơ mang đậm sắc thái hiện đại. Tác giả sử dụng thành công cấu trúc lặp liên hoàn : ma bao túc, bao túc ma. Hoạt động xay ngô lặp đi lặp lại diễn tả vòng tuần hoàn của cối xay ngô. ở đó người ta nhận ra nhịp điệu trôi chảy của thời gian nhưng điều kì diệu chính ở chỗ nhịp điệu của thời gian hoà cùng nhịp điệu trong cuộc sống lao động của con người. Nhịp thời gian trở thành nhịp của sự sống. Tứ thơ của Hồ Chí Minh có sự vận động mạnh mẽ, tự nhiên mà khoẻ khoắn.
Câu thơ thứ ba của bản dịch thơ dịch thừa chữ tối. Bài thơ không có từ tối nhưng thời gian tối của bức tranh được gợi ra từ chính hình ảnh "lò than rực hồng". Có một sự đối lập tương phản giữa ánh sáng của lò than với bóng tối của xóm núi. Chỉ cần nhìn lò than đỏ, người ta cũng nhận ra bóng tối đã về bao trùm vạn vật. Bút pháp "vẽ mây nảy trăng" được sử dụng thành công.
Bức tranh chiều tối đến đây không buồn bã, thê lương, ảm đạm mà tràn đầy sự sống ấm áp tươi sáng, từ nỗi buồn thương đến niềm tin vui thể hiện một hồn thơ luôn hướng về ánh sáng, sự sống và tương lai.
Bài thơ kết lại bằng chữ hồng. Bài thơ mang tên Chiều tối nhưng không kết thúc bằng bóng tối mà kết thúc bằng ánh sáng màu sắc rực rỡ. Chữ hồng chính là nhãn tự của bài thơ, thu được cả linh hồn sức sống của toàn bài. Cả bức tranh bừng sáng bởi chữ hồng.
Bài thơ Chiều tối kết lại bằng niềm tin tưởng, bằng khát vọng dâng đầy của người cộng sản. Đặt trong thân phận tù ngục, người ta vẫn nhận ra hình ảnh một con người Hồ Chí Minh với tình yêu thiên nhiên rộng lớn, với một khao khát sự sống mạnh mẽ và một ý chí, nghị lực kiên cường, một niềm tin cháy bỏng.
Bài thơ thể hiện một bức chân dung về người tù cộng sản Hồ Chí Minh, một người cộng sản kiên cường, ung dung, tự tại và có một tấm lòng tha thiết với thiên nhiên, với cuộc sống, Người luôn nâng niu tất cả, chỉ quên mình
Chiều tối mang vẻ đẹp của Đường thi với màu sắc cổ điển đậm đà.Bài thơ tứ tuyệ hàm súc, câu chữ dồn nén, hàm chứa ý nghĩa.
Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại
Cách dùng các thủ pháp nghệ thuật(nhân hoá, lặp vòng, bút pháp thiên nhiên chân thật, giản dị, tự nhiên)hình ảnh gợi cảm, ngôn ngữ hàm súc, tinh luyện đã làm nên sức hấp dẫn cho bài thơ./.
“Mộ” (Chiều tối) bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 31. Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời tối dần. Hai câu đầu tả cảnh bầu trời lúc chiều tối. Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn. Áng mây lẻ loi, cô đơn (cô vân) trôi lững lờ trên tầng không. Cảnh vật thoáng buồn. Hai nét vẽ chấm phá (chim và mây), lấy cái nhỏ bé, cái động để làm nổi bật bầu trời bao la, cảnh chiều tối lặng lẽ và buồn. Cánh chim mỏi và áng mây cô đơn là hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ trong thơ cổ tả cảnh chiều tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ về người tù bị lưu đày trên con đường khổ ải mờ mịt vạn dặm:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Trời tối rồi, tù nhân bị giải đi qua một xóm núi. Có bóng người (thiếu nữ). Có cảnh làm ăn bình dị: xay ngô. Có lò than đã rực hồng (lô dĩ hồng). Các chi tiết nghệ thuật ấy làm hiện lên một mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã, bình dị, “ấm áp”. Nếu chim trời, áng mây chiều đồng điệu với tâm hồn nhà thơ thì cảnh xay ngô của thiếu nữ và lò than rực hồng kia như đang làm vợi đi ít nhiều nỗi đau khổ của người đi đày khi qua nơi miền sơn cước xa lạ. Tương phản với màn đêm bao trùm không gian, cảnh vật là “lò than đã rực hồng”. Tứ thơ vận động từ bóng tối hướng về ánh sáng. Nó cho ta thấy, trong cảnh ngộ cô đơn, nặng nề, bị tước mất tự do, bị ngược đãi, người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn gắn bó, chan hòa, gần gũi với nhịp đời thường cần lao. Câu thơ thứ 3 dịch chưa được hay. Chữ “cô em” hơi lạc điệu. Thêm vào một chữ “tối” đã mất đi ý vị “ý tại ngôn ngoại” vẻ đẹp hàm súc của thơ chữ Hán cổ điển:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Bài thơ có cảnh bầu trời và xóm núi, có áng mây, cánh chim chiều. Chim về rừng, mây lơ lửng. Có thiếu nữ xay ngô và lò than hồng. Đằng sau bức tranh cảnh chiều tối là một nỗi niềm buồn, cô đơn, là một tấm lòng hướng về nhân dân lao động, tìm thấy trong khoảnh khắc chiều tối. Nghệ thuật mượn cảnh để tả tình. Điệu thơ nhè nhẹ, man mác bâng khuâng, đậm đà màu sắc cổ điển. Tinh tế trong biểu hiện, đậm đà trong biểu cảm là vẻ đẹp trữ tình của bài thơ “Chiều tối” này… Rất nhân hậu, rất người.
Hồ Chí Minh
Chiều tối là bài thơ tiêu biểu rút trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại một cách chân thực cảnh người tù sau một ngày chuyển lao mệt nhọc. Ở đó người đọc nhận ra thế giới tâm hồn người tù Hồ Chí Minh là tình yêu thiên nhiên cuộc sống tha thiết, là khao khát ý chí và bản lĩnh người cách mạng. Bài thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh : vừa cổ điển, vừa hiện đại.
Nhật kí trong tù là tập thơ có giá trị văn học rất lớn của Hồ Chí Minh, được viết bằng chữ Hán nên có rất nhiều điểm gần với thơ Đường. Với những bài Đường luật xinh xắn về hình thức, nồng nàn về cảm xúc,... tác phẩm thể hiện tài năng, tấm lòng, tâm huyết và nhân cách Hồ Chí Minh với cả hai tư cách nghệ sĩ và chiến sĩ.
Bài thơ Chiều tối đã thể hiện đầy đủ và khá điển hình đặc điểm cơ bản nhất của toàn bộ cuốn nhật kí bằng thơ của Hồ Chí Minh, đó là vẻ đẹp cổ điển về hình thức và hiện đại về cảm hứng, toát lên phong thái ung dung tự tại của một người Cộng sản. Dù trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào, Người cũng phát hiện được những vẻ đẹp giản dị mà đáng quý của cuộc sống.
Bài thơ tả cảnh chiều tối ở một sơn thôn. Bức tranh phong cảnh ấy được bố cục làm hai phần :
Hai câu đầu : tả cảnh vật trong buổi chiều tối. Tất nhiên đây là cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của người tù, vì vậy nó là cảnh thật nhưng có ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh cánh chim và đám mây vừa giàu chất hoạ, vừa có khả năng gợi cảm. Sự mệt mỏi của cánh chim, sự cô đơn của đám mây chiều là tâm trạng của người tù đang tha phương.
Hai câu sau : bức tranh bừng sáng bởi "lô dĩ hồng". Bản lĩnh cứng cáp đã giúp người tù nhanh chóng thoát khỏi cô đơn và mệt mỏi để phát hiện ra sức sống. Vẻ đẹp của bức tranh thể hiện ở hình ảnh người lao động. Tâm hồn của Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai, về nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống.
Bài thơ thể hiện tài năng sáng tạo thơ "thi trung hữu hoạ" của Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện bản lĩnh của người cộng sản.
Hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên mở ra những hình ảnh cụ thể : cánh chim, chòm mây, bầu trời, núi rừng.
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không ;
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Không gian rừng núi có vẻ âm u hoang vắng gợi ra sự rộng lớn mênh mông. Thời gian chiều ngả dần về tối là thời gian nghệ thuật quen thuộc trở đi trở lại trong các tác phẩm thi ca. Nghệ sĩ xưa thường mượn thời gian chiều tối để gửi gắm tiếng lòng mình, để nương náu nỗi buồn của mình. Ca dao xưa có câu :
Chim bay về núi tối rồi
hay trong Truyện Kiều :
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành.
Đọc câu thơ của Hồ Chí Minh khiến người đọc nhớ tới những tứ thơ của người xưa, ý thơ mang đậm sắc thái cổ điển.
Nỗi lòng, tâm trạng người tù sau một ngày chuyển lao vất vả, nhọc nhằn, mệt mỏi được hiện lên qua hình ảnh cánh chim mỏi mệt. Nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" được sử dụng thành công khiến người đọc không chỉ cảm nhận được tiếng nói của tâm trạng con người. Chòm mây trong cái nhìn của người tù là chòm mây cô đơn. Người đọc không chỉ cảm nhận được sự nhọc nhằn, mệt mỏi của người tù mà còn thấy được cả nỗi cô đơn, buồn khổ của người tù trong cảnh ấy. Bản dịch thơ chưa dịch hết nghĩa nguyên tác, không dịch được chữ cô trong cô vân. Bởi vậy lời dịch không làm bật lên sự cô đơn lẻ chiếc của cảnh vật cũng như nỗi cô đơn trong lòng người. Từ láy mạn mạn được dịch là "trôi nhẹ" gợi cảm giác nhẹ nhàng, thư thái. Trong cảm nhận của người tù, áng mây chầm chậm, lững lờ trôi trên bầu trời trong cảm giác cô đơn. Người ta tưởng chừng áng mây như ngưng đọng giữa bầu trời chiều. Có một sự vận động mệt mỏi, ý thơ khác hẳn với cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, lãng mạn mà "trôi nhẹ" đem lại. Bức tranh thiên nhiên có vẻ hoang vắng, tĩnh lặng, thấm nỗi buồn cô đơn của con người. Hai câu thơ không có một từ nào trực tiếp miêu tả người tù và tâm trạng người tù nhưng qua đó vẫn ẩn chứa hình ảnh người tù trong sự mệt mỏi, nhọc nhằn, trong nỗi buồn và sự cô đơn.
Tất cả cảnh vật thiên nhiên : cánh chim, chòm mây, bầu trời đều là những cảnh vật được cảm nhận từ trên cao, trong không gian cao rộng, khoáng đạt. Người ta nhận ra tư thế người tù tư thế của một con người luôn ngẩng cao đầu với một ý chí, nghị lực mạnh mẽ, với một tâm hồn rộng mở đón nhận vạn vật vào trong lòng mình. Hai câu đầu diễn tả nỗi buồn, sự cô đơn của người tù nhưng không gợi cảm giác bi luỵ bế tắc mà vẫn hé mở bản lĩnh, ý chí, nghị lực phi thường của người tù cách mạng.
Nếu như hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên thì hai câu sau miêu tả bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người :
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.)
Hình ảnh "cô em xóm núi" trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh. Hình ảnh con người xuất hiện trở thành tâm điểm của sự sống làm ấm áp cả bức tranh chiều tối hoang vắng, lạnh lẽo. Vẻ đẹp của bức tranh chiều tối được toát lên từ chính vẻ đẹp hoạt động của con người, thể hiện sự khoẻ khoắn, niềm tin và khát vọng mạnh mẽ của con người. Câu thơ mang đậm sắc thái hiện đại. Tác giả sử dụng thành công cấu trúc lặp liên hoàn : ma bao túc, bao túc ma. Hoạt động xay ngô lặp đi lặp lại diễn tả vòng tuần hoàn của cối xay ngô. ở đó người ta nhận ra nhịp điệu trôi chảy của thời gian nhưng điều kì diệu chính ở chỗ nhịp điệu của thời gian hoà cùng nhịp điệu trong cuộc sống lao động của con người. Nhịp thời gian trở thành nhịp của sự sống. Tứ thơ của Hồ Chí Minh có sự vận động mạnh mẽ, tự nhiên mà khoẻ khoắn.
Câu thơ thứ ba của bản dịch thơ dịch thừa chữ tối. Bài thơ không có từ tối nhưng thời gian tối của bức tranh được gợi ra từ chính hình ảnh "lò than rực hồng". Có một sự đối lập tương phản giữa ánh sáng của lò than với bóng tối của xóm núi. Chỉ cần nhìn lò than đỏ, người ta cũng nhận ra bóng tối đã về bao trùm vạn vật. Bút pháp "vẽ mây nảy trăng" được sử dụng thành công.
Bức tranh chiều tối đến đây không buồn bã, thê lương, ảm đạm mà tràn đầy sự sống ấm áp tươi sáng, từ nỗi buồn thương đến niềm tin vui thể hiện một hồn thơ luôn hướng về ánh sáng, sự sống và tương lai.
Bài thơ kết lại bằng chữ hồng. Bài thơ mang tên Chiều tối nhưng không kết thúc bằng bóng tối mà kết thúc bằng ánh sáng màu sắc rực rỡ. Chữ hồng chính là nhãn tự của bài thơ, thu được cả linh hồn sức sống của toàn bài. Cả bức tranh bừng sáng bởi chữ hồng.
Bài thơ Chiều tối kết lại bằng niềm tin tưởng, bằng khát vọng dâng đầy của người cộng sản. Đặt trong thân phận tù ngục, người ta vẫn nhận ra hình ảnh một con người Hồ Chí Minh với tình yêu thiên nhiên rộng lớn, với một khao khát sự sống mạnh mẽ và một ý chí, nghị lực kiên cường, một niềm tin cháy bỏng.
Bài thơ thể hiện một bức chân dung về người tù cộng sản Hồ Chí Minh, một người cộng sản kiên cường, ung dung, tự tại và có một tấm lòng tha thiết với thiên nhiên, với cuộc sống, Người luôn nâng niu tất cả, chỉ quên mình
Chiều tối mang vẻ đẹp của Đường thi với màu sắc cổ điển đậm đà.Bài thơ tứ tuyệ hàm súc, câu chữ dồn nén, hàm chứa ý nghĩa.
Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại
Cách dùng các thủ pháp nghệ thuật(nhân hoá, lặp vòng, bút pháp thiên nhiên chân thật, giản dị, tự nhiên)hình ảnh gợi cảm, ngôn ngữ hàm súc, tinh luyện đã làm nên sức hấp dẫn cho bài thơ./.
“Mộ” (Chiều tối) bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 31. Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời tối dần. Hai câu đầu tả cảnh bầu trời lúc chiều tối. Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn. Áng mây lẻ loi, cô đơn (cô vân) trôi lững lờ trên tầng không. Cảnh vật thoáng buồn. Hai nét vẽ chấm phá (chim và mây), lấy cái nhỏ bé, cái động để làm nổi bật bầu trời bao la, cảnh chiều tối lặng lẽ và buồn. Cánh chim mỏi và áng mây cô đơn là hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ trong thơ cổ tả cảnh chiều tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ về người tù bị lưu đày trên con đường khổ ải mờ mịt vạn dặm:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Trời tối rồi, tù nhân bị giải đi qua một xóm núi. Có bóng người (thiếu nữ). Có cảnh làm ăn bình dị: xay ngô. Có lò than đã rực hồng (lô dĩ hồng). Các chi tiết nghệ thuật ấy làm hiện lên một mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã, bình dị, “ấm áp”. Nếu chim trời, áng mây chiều đồng điệu với tâm hồn nhà thơ thì cảnh xay ngô của thiếu nữ và lò than rực hồng kia như đang làm vợi đi ít nhiều nỗi đau khổ của người đi đày khi qua nơi miền sơn cước xa lạ. Tương phản với màn đêm bao trùm không gian, cảnh vật là “lò than đã rực hồng”. Tứ thơ vận động từ bóng tối hướng về ánh sáng. Nó cho ta thấy, trong cảnh ngộ cô đơn, nặng nề, bị tước mất tự do, bị ngược đãi, người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn gắn bó, chan hòa, gần gũi với nhịp đời thường cần lao. Câu thơ thứ 3 dịch chưa được hay. Chữ “cô em” hơi lạc điệu. Thêm vào một chữ “tối” đã mất đi ý vị “ý tại ngôn ngoại” vẻ đẹp hàm súc của thơ chữ Hán cổ điển:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Bài thơ có cảnh bầu trời và xóm núi, có áng mây, cánh chim chiều. Chim về rừng, mây lơ lửng. Có thiếu nữ xay ngô và lò than hồng. Đằng sau bức tranh cảnh chiều tối là một nỗi niềm buồn, cô đơn, là một tấm lòng hướng về nhân dân lao động, tìm thấy trong khoảnh khắc chiều tối. Nghệ thuật mượn cảnh để tả tình. Điệu thơ nhè nhẹ, man mác bâng khuâng, đậm đà màu sắc cổ điển. Tinh tế trong biểu hiện, đậm đà trong biểu cảm là vẻ đẹp trữ tình của bài thơ “Chiều tối” này… Rất nhân hậu, rất người.
ConversionConversion EmoticonEmoticon